Tổng quan:Tình trạng kháng kháng sinh của Helicobacter pylori (H. pylori) đang gia tăng trên toàn thế giới, khác nhau tùy theo vùng, ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Nghiên cứu này đánh giá mô hình kháng kháng sinh của H. pylori ở trẻ em Việt Nam. Phương pháp: Trẻ em có triệu chứng được nội soi dạ dày tá tràng tại hai bệnh viện nhi tuyến cuối ở Thành phố Hồ Chí Minh. Mẫu sinh thiết hang vị và thân vị được lấy và nuôi cấy riêng biệt. Độ nhạy cảm với amoxicillin (AMO), clarithromycin (CLA), metronidazole (MET), levofloxacin (LEV) và tetracycline (TET) được xác định bằng E-test. Phản ứng chuỗi polymerase được thực hiện trên một mẫu sinh thiết hang vị khác để phát hiện gen urease, gen liên quan đến độc lực vi khuẩn cagA, vacA và đột biến 23S rRNA liên quan kháng CLA. Kết quả: Trong số 123 trẻ cấy H. pylori dương tính và có kháng sinh đồ, tỷ lệ kháng nguyên phát cao được tìm thấy với CLA (68,5%, 61/89), tiếp theo là LEV (55,1%), MET (31,5%), AMO (25,8%) và TET (1,1%). Tỷ lệ kháng thứ phát lần lượt là 82,1% (28/7), 71,4%, 53,6% và 3,6% đối với CLA, LEV, MET và TET. Tình trạng kháng đa thuốc xảy ra thường xuyên (67,7%), với các dạng phổ biến bao gồm CLA + LEV (20,3%) và CLA + MTZ + LEV (15,2%). Dị kháng được phát hiện ở 8 trẻ (6,5%). Đột biến A2143G được phát hiện ở 97,5% (119/122) trẻ em. 86,1% trẻ nhiễm chủng cagA dương tính và 27,9% có nhiều kiểu gen vacA. Không có yếu tố nào liên quan đáng kể đến tình trạng kháng kháng sinh. Kết luận: Tỷ lệ đáng báo động về tình trạng kháng kháng sinh của H. pylori, đặc biệt là CLA, với các chủng đa kháng và dị kháng mới nổi, đặt ra một thách thức lớn trong điều trị khiến việc sử dụng CLA làm liệu pháp theo kinh nghiệm bị hạn chế. Sinh thiết từ cả hang vị và thân vị có thể cải thiện tỷ lệ nuôi cấy thành công H. pylori, cho phép điều trị phù hợp dựa trên độ nhạy cảm với kháng sinh.
106 total views, 1 views today